Báo cáo số 453/BC-HĐBC ngày 18-7-2011 của Hội đồng Bầu cử tổng kết cuộc bầu cử ĐBQH khoá XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016

Sau quá trình chuẩn bị khẩn trương, chu đáo, ngày 22 tháng 5 năm 2011, cử tri cả nước đã hăng hái, nô nức, phấn khởi thực hiện quyền bầu cử ĐBQH khoá XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016.

 

 

HỘI ĐỒNG BẦU CỬ
________

 

Số:  453/BC-HĐBC

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
__________________________

 

Hà Nội, ngày 18 tháng 7 năm 2011

 

 

BÁO CÁO

TỔNG KẾT CUỘC BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHOÁ XIII

VÀ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP

NHIỆM KỲ 2011-2016
_____________

 

Sau quá trình chuẩn bị khẩn trương, chu đáo, ngày 22 tháng 5 năm 2011, cử tri cả nước đã hăng hái, nô nức, phấn khởi thực hiện quyền bầu cử ĐBQH khoá XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016. Cuộc bầu cử đã diễn ra đúng pháp luật, bảo đảm dân chủ, bình đẳng, an toàn, tiết kiệm và thực sự là ngày hội lớn của toàn dân phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng chính quyền.  

Hội đồng bầu cử báo cáo tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016, như sau:

 

I. BỐI CẢNH, ĐẶC ĐIỂM CỦA CUỘC BẦU CỬ

 

Cuộc bầu cử diễn ra trong thời điểm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng vừa kết thúc thắng lợi; toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang phấn đấu triển khai thực hiện các nhiệm vụ mà Cương lĩnh chính trị và Nghị quyết Đại hội XI đề ra. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng lãnh đạo đã và đang thu được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Đó là những yếu tố thuận lợi cơ bản trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai tổ chức cuộc bầu cử.

Tuy vậy, cuộc bầu cử lần này cũng diễn ra trong điều kiện kinh tế - xã hội trong nước và trên thế giới vừa thuận lợi, vừa khó khăn, tiềm ẩn những yếu tố phức tạp. Đây là lần đầu tiên thực hiện chủ trương của Ban chấp hành trung ương Đảng về việc tổ chức đồng thời bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu HĐND các cấp trong cùng một ngày, khối lượng công việc rất lớn, có nhiều điểm mới, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Các luật về bầu cử vừa được sửa đổi, bổ sung lần đầu tiên được áp dụng. Thực hiện Nghị quyết số 26/2008/QH12 ngày 15.11.2008 của Quốc hội, có 10 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đang thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường. Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu dân cư có thay đổi đáng kể so với 4 năm trước đây, việc hình thành các khu công nghiệp tập trung đông công nhân và sự thay đổi nơi cư trú thường xuyên của một bộ phận dân cư tăng lên. Kinh tế thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp, kinh tế trong nước gặp những khó khăn, lạm phát tăng cao đã tác động tới hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân. Những bất ổn về chính trị, xung đột về tôn giáo, sắc tộc trên thế giới có những diễn biến phức tạp; thiên tai, thảm hoạ ở một số nước có tác động nhất định đến nước ta. Các đối tượng xấu, thế lực thù địch tiếp tục thực hiện các âm mưu chống phá chế độ, tuyên truyền phá hoại cuộc bầu cử. Những đặc điểm này có ảnh hưởng nhất định trong công tác triển khai chuẩn bị, tổ chức cuộc bầu cử và kết quả bầu cử.

 

II. CÔNG TÁC CHUẨN BỊ BẦU CỬ

 

1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo cuộc bầu cử

Từ đầu năm 2010, Bộ Chính trị đã chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội nghiên cứu xây dựng "Đề án tổng thể và chủ trương cụ thể về các vấn đề có liên quan đến cuộc bầu cử ĐBQH khoá XIII và bầu cử HĐND các cấp" nhằm tổng kết, đánh giá các cuộc bầu cử trước đây, đưa ra các đề xuất, kiến nghị, giải pháp để tiến hành sửa đổi các luật về bầu cử; dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu; các bước thời gian triển khai bầu cử; phân công nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo bầu cử, chủ động chuẩn bị trước một bước các điều kiện cần thiết cho cuộc bầu cử. Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.

Ngày 05.01.2011, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 50-CT/TW về lãnh đạo cuộc bầu cử, nhấn mạnh mục đích, ý nghĩa chính trị to lớn của cuộc bầu cử, nêu lên các yêu cầu, nhiệm vụ để các cấp uỷ, các tổ chức đảng lãnh đạo, chỉ đạo việc chuẩn bị và tổ chức thắng lợi cuộc bầu cử, coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong năm 2011. Hội nghị toàn quốc triển khai công tác bầu cử đã được tổ chức kịp thời nhằm quán triệt các nội dung Chỉ thị số 50-CT/TW, các luật bầu cử, kế hoạch triển khai công tác bầu cử. Ban Tổ chức trung ương có văn bản hướng dẫn về công tác nhân sự ĐBQH khoá XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016.

Để phục vụ công tác chuẩn bị bầu cử, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử, Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các bộ ngành có liên quan đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn công tác bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND, như: Nghị quyết công bố ngày bầu cử và thành lập Hội đồng bầu cử; Nghị quyết hướng dẫn một số điểm về tổ chức cuộc bầu cử; Kế hoạch triển khai công tác bầu cử, lịch trình thời gian thực hiện công việc bầu cử; Nghị quyết liên tịch về quy trình hiệp thương lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND; Nghị quyết liên tịch về tổ chức hội nghị lấy ý kiến cử tri nơi công tác, nơi cư trú về những người ứng cử; Chỉ thị về tổ chức cuộc bầu cử; Quyết định hướng dẫn cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu HĐND các cấp; tổ chức, hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu cử; lập dự toán, quản lý, phân bổ, sử dụng và quyết toán kinh phí bầu cử; các biểu mẫu phục vụ công tác bầu cử, kê khai tài sản, thu nhập của người ứng cử; các văn bản chỉ đạo về công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; về công tác thông tin, tuyên truyền; phương án chủ động đối phó với thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh trong quá trình chuẩn bị bầu cử; cung cấp số liệu dân số làm căn cứ tính số lượng đại biểu HĐND; bảo đảm giao thông, thông tin liên lạc…

Trong quá trình triển khai, theo đề nghị của các địa phương, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử, Ban Công tác đại biểu đã ban hành 63 văn bản, trong đó có 15 văn bản cho phép bầu cử sớm, lùi ngày bầu cử ở một số khu vực thuộc 13 tỉnh, thành phố; Uỷ ban trung ương MTTQ Việt Nam, Bộ Nội vụ ban hành nhiều văn bản cá biệt để hướng dẫn Uỷ ban bầu cử, Uỷ ban MTTQ, Sở Nội vụ các tỉnh, thành phố kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh, bảo đảm tiến độ công tác chuẩn bị bầu cử. Ban thường trực Uỷ ban trung ương MTTQ Việt Nam đã tổ chức hội nghị toàn quốc cán bộ mặt trận cấp tỉnh. Bộ Nội vụ đã tổ chức 3 hội nghị giao ban công tác bầu cử ngành nội vụ; 2 đợt giao ban trực tuyến với 63 tỉnh, thành phố tại 8 điểm để kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ về công tác chuẩn bị bầu cử; tổ chức 07 cuộc tập huấn cho cán bộ phụ trách bầu cử theo địa bàn và khu vực trong cả nước.

Các tỉnh ủy, thành ủy đã thành lập Ban chỉ đạo công tác bầu cử, ban hành chỉ thị lãnh đạo cuộc bầu cử, quán triệt các văn bản của trung ương; Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi tắt là tỉnh, thành phố) đã ban hành các văn bản chỉ đạo triển khai công tác chuẩn bị bầu cử trên địa bàn. Uỷ ban MTTQ các cấp kịp thời hướng dẫn thực hiện 5 bước công tác với 3 lần hiệp thương giới thiệu, lựa chọn người ứng cử. Các cấp, các ngành, đoàn thể tổ chức hội nghị tập huấn, tuyên truyền về bầu cử để quán triệt, phổ biến Chỉ thị của Bộ Chính trị và các văn bản hướng dẫn về bầu cử đến cấp cơ sở.

2. Công tác nhân sự, hiệp thương lựa chọn, giới thiệu, lấy ý kiến cử tri về người ứng cử

Công tác nhân sự, hiệp thương lựa chọn, giới thiệu và lập danh sách những người ứng cử ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ Đảng ở địa phương về quy trình, quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ.

Căn cứ vào các quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội đã được sửa đổi, bổ sung, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng ĐBQH khoá XIII được bầu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương. Theo đó, tổng số ĐBQH khoá XIII là 500 người, trong đó đại biểu ở trung ương 183 người, đại biểu cư trú và làm việc tại địa phương 317 người. Đại biểu chuyên trách ở các cơ quan Quốc hội là 100 người (trong đó có 01 đại biểu của Kiểm toán nhà nước), đại biểu chuyên trách ở các Đoàn ĐBQH  là 65 người. Về cơ cấu kết hợp, dân tộc thiểu số: 90 người (18%); phụ nữ: 150 người (30%); ngoài Đảng khoảng 10-15%; trẻ tuổi khoảng 70 người (14%); tái cử: 160 người (32%). Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã 2 lần điều chỉnh, đồng ý để một số tỉnh, thành phố điều chỉnh về cơ cấu, thành phần cho phù hợp hơn. Về cơ bản, việc dự kiến và thay đổi đã được tiến hành kịp thời, đảm bảo cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu phù hợp với tình hình chung và điều kiện cụ thể của từng địa phương.

Chính phủ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện đã phê chuẩn số lượng đại biểu HĐND của các đơn vị hành chính theo thẩm quyền. Căn cứ vào số lượng đại biểu được phê chuẩn, Thường trực HĐND các cấp đã tiến hành dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu HĐND được bầu của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương và của các thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố trên địa bàn (đối với cấp xã) và tiến hành điều chỉnh dự kiến phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tình hình công tác nhân sự cụ thể ở địa phương, bảo đảm định hướng cơ cấu, thành phần theo Quyết định số 215/QĐ-TTg ngày 16.02.2011 của Thủ tướng Chính phủ.

Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương MTTQ Việt Nam đã chủ trì tổ chức các Hội nghị hiệp thương bầu cử ĐBQH ở trung ương và hướng dẫn, chỉ đạo Uỷ ban MTTQ các cấp ở địa phương tổ chức các Hội nghị hiệp thương, Hội nghị lấy lý kiến cử tri nơi công tác và nơi cư trú đối với người ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND. Các hội nghị được tiến hành đúng thời gian, trình tự, thủ tục và thành phần theo quy định của pháp luật; bảo đảm công khai, minh bạch, phát huy tinh thần dân chủ. Quá trình thảo luận tại các Hội nghị lấy ý kiến cử tri đã thực sự phát huy tinh thần trách nhiệm của cử tri trong công tác xây dựng chính quyền. Các ý kiến đóng góp đều chân thành, thẳng thắn, khách quan và mang tính xây dựng cao, bảo đảm lựa chọn được những người đủ tiêu chuẩn để ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND, là cơ sở để tiếp tục đổi mới tổ chức và cải tiến phương thức hoạt động, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội và HĐND các cấp trong thời gian tới. Trong quá trình hiệp thương, lấy ý kiến cử tri nơi cư trú, nơi công tác, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp đã phối hợp với các cơ quan hữu quan xác minh, làm rõ những vấn đề mà cử tri nêu lên đối với các ứng cử viên.

Sau Hội nghị hiệp thương lần thứ 3, Hội đồng bầu cử đã hướng dẫn Uỷ ban bầu cử và Ban thường trực MTTQ các cấp xem xét, quyết định để một số ứng cử viên rút tên khỏi danh sách ứng cử theo nguyện vọng cá nhân của người ứng cử. Hội đồng bầu cử đã giới thiệu những người ứng cử ĐBQH ở trung ương về ứng cử tại 63 tỉnh, thành phố theo 7 tiêu chí đã được Hội đồng bầu cử, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua. Việc phân bổ những người ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND các cấp được thực hiện công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật.

Về kết quả Hội nghị hiệp thương bầu cử ĐBQH: Cả nước có 827 người trong danh sách chính thức ứng cử ĐBQH, trong đó có 182 người do trung ương giới thiệu và 645 người ở địa phương để bầu 500 đại biểu. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, dân số và số lượng đại biểu được bầu, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết công bố số đơn vị bầu cử và số đại biểu được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử, Nghị quyết công bố danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội khoá XIII theo từng đơn vị bầu cử. Cả nước có 183 đơn vị bầu cử, trong đó, 2 đơn vị có 6 người ứng cử đề bầu 3 đại biểu; 129 đơn vị có 5 người ứng cử để bầu 3 đại biểu; 3 đơn vị có 4 người ứng cử để bầu 3 đại biểu; 11 đơn vị có 4 người ứng cử để bầu 2 đại biểu; 38 đơn vị có 3 người ứng cử để bầu 2 đại biểu. Tỷ lệ giữa số người ứng cử trong danh sách chính thức so với tổng số ĐBQH được bầu là 1,65 lần.

Về kết quả Hội nghị hiệp thương bầu cử đại biểu HĐND các cấp: Có 472.870 ứng cử viên đại biểu HĐND các cấp để bầu 306.491 đại biểu. Trong đó, cấp tỉnh là 5.955 người ứng cử để bầu 3.829 đại biểu (tỷ lệ 1,55); cấp huyện là 32.253 người ứng cử để bầu 21.124 đại biểu (tỷ lệ 1,53); cấp xã là 434.662 người ứng cử để bầu 281.538 đại biểu (tỷ lệ 1,54).

3. Lập danh sách cử tri, tổ chức tiếp xúc cử tri, vận động bầu cử

Việc lập danh sách cử tri đã được tiến hành cẩn thận và hoàn thành đúng thời hạn luật định. Theo báo cáo của 63 tỉnh, thành phố, cả nước có 62.313.605 cử tri. Danh sách cử tri được niêm yết tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, tại các địa điểm tổ chức bỏ phiếu và những nơi công cộng để cử tri theo dõi. Việc rà soát, bổ sung được thực hiện thường xuyên, nhất là những nơi có sự biến động dân cư nhiều, như các địa phương có đông khách du lịch, các khu công nghiệp, trường học, nơi có nhiều cử tri đi làm ăn xa, …tạo điều kiện cho công dân thực hiện đầy đủ quyền bầu cử. Nhiều địa phương đã có sáng kiến trong việc lập, niêm yết danh sách cử tri, ghi thẻ cử tri để đảm bảo tính chính xác và thuận lợi trong việc phát phiếu bầu.

Dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của Uỷ ban trung ương MTTQ Việt Nam, Ban thường trực Uỷ ban MTTQ các cấp đã phối hợp với Uỷ ban nhân dân cùng cấp tổ chức cuộc họp với những người ứng cử để cung cấp các tài liệu về tình hình, nhiệm vụ và định hướng về kinh tế – xã hội ở địa phương, thông báo kế hoạch và lịch tiếp xúc cử tri. Các cơ quan thông tấn, báo chí, phát thanh, truyền hình, truyền thanh đã đưa tin khá đầy đủ về hoạt động vận động bầu cử, tạo điều kiện cho đông đảo cử tri và nhân dân tìm hiểu về ứng cử viên.

Tổng hợp từ báo cáo của 63 tỉnh, thành phố, có 2.192 hội nghị tiếp xúc cho người ứng cử ĐBQH, với 340.696 cử tri tham dự, có 13.759 ý kiến phát biểu. Đối với bầu cử đại biểu HĐND, tổng số hội nghị tiếp xúc ở cả 3 cấp là 121.084 cuộc, với 6.367.095 cử tri tham gia, có 375.968 ý kiến phát biểu. Có địa phương tổ chức riêng cho ứng cử viên ĐBQH tiếp xúc, có nơi tổ chức cho ứng cử viên ĐBQH và đại biểu HĐND cấp tỉnh cùng tiếp xúc, cũng có nơi tổ chức kết hợp cả ứng cử viên ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp. Do số lượng ứng cử viên rất lớn, nhiều địa phương phải tổ chức Hội nghị tiếp xúc cử tri cả buổi tối.

Nhìn chung, các ứng cử viên đều có sự chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc, bám sát yêu cầu nhiệm vụ chung và điều kiện cụ thể ở địa phương để xây dựng chương trình hành động của mình, thể hiện được quyết tâm và ý tưởng hành động khi trúng cử. Không khí tiếp xúc cử tri dân chủ, sôi nổi, cởi mở. Hầu hết các ý kiến cử tri đều thẳng thắn và mang tính xây dựng cao, tập trung vào những vấn đề thời sự hiện nay, bày tỏ sự tin tưởng và mong muốn các đại biểu sẽ phát huy vai trò, trách nhiệm người đại biểu của dân tại cơ quan quyền lực nhà nước, gần dân hơn, phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri, thực hiện đúng lời hứa và có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương và cả nước.

Việc vận động bầu cử qua các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã được chú trọng thực hiện. Nhiều cơ quan thông tấn, báo chí ở trung ương và địa phương đã dành thời lượng, dung lượng hợp lý để phỏng vấn, đăng tải chương trình hành động của các ứng cử viên. Tuy nhiên, hình thức vận động này mới chủ yếu dành cho các ứng cử viên ĐBQH và đại biểu HĐND cấp tỉnh.

4. Việc thành lập và hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu cử

Các tổ chức phụ trách bầu cử được thành lập đúng trình tự, thủ tục, thời hạn, số lượng và thành phần theo quy định của pháp luật. Hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu cử đúng chức năng, nhiệm vụ, đạt kết quả tốt trên nhiều mặt công tác của quá trình chuẩn bị và tổ chức cuộc bầu cử.

Ở trung ương, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã quyết định thành lập Hội đồng bầu cử với 21 thành viên, gồm đại diện Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số cơ quan, tổ chức hữu quan để chỉ đạo, lãnh đạo chung cuộc bầu cử. Hội đồng bầu cử đã thành lập 3 tiểu ban tham mưu, giúp việc trong các lĩnh vực quan trọng. Các Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử và 89.942 Tổ bầu cử trong cả nước đã xây dựng kế hoạch công tác, thống nhất nguyên tắc làm việc, thành lập các tiểu ban hoặc các nhóm công tác, phân công các thành viên phụ trách theo từng lĩnh vực công việc cụ thể và theo địa bàn. Các địa phương đã chú trọng lựa chọn những người có uy tín, có kinh nghiệm và hiểu biết về công tác bầu cử làm Tổ trưởng, Thư ký tổ bầu cử. Công tác tập huấn nghiệp vụ về bầu cử được tiến hành sâu rộng đến các thành viên tổ bầu cử.

Dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, sự chỉ đạo của các cấp chính quyền và mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan, các tổ chức phụ trách bầu cử đã thực hiện tốt các nhiệm vụ, quyền hạn của mình với tinh thần khẩn trương, cẩn trọng và trách nhiệm cao. Công tác triển khai chuẩn bị bầu cử cũng được các tổ chức phụ trách bầu cử tiến hành kịp thời, bảo đảm đúng quy định và tiến độ đề ra.

5. Công tác giám sát, kiểm tra về bầu cử

Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Hội đồng bầu cử đã tổ chức 3 đợt gồm 31 đoàn do các đồng chí thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, thành viên Hội đồng bầu cử làm Trưởng đoàn đi giám sát, kiểm tra công tác chuẩn bị bầu cử tại 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Ngoài ra, còn có các đoàn kiểm tra, giám sát của Uỷ ban trung ương MTTQ Việt Nam, các tiểu ban, các ban ngành trung ương.

Trong quá trình giám sát, kiểm tra, các đoàn đã làm việc với lãnh đạo, Uỷ ban bầu cử các tỉnh, thành phố; kiểm tra thực tế công tác chuẩn bị bầu cử tại các huyện, xã và các khu vực bầu cử. Qua công tác giám sát, kiểm tra, các đoàn đã đánh giá công tác chuẩn bị bầu cử tại các tỉnh, thành phố, chỉ đạo và lưu ý địa phương tập trung triển khai tốt những nội dung công việc trong quá trình chuẩn bị, giải thích, hướng dẫn những vấn đề còn vướng mắc hoặc mới phát sinh; có các kiến nghị, đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử và các cơ quan hữu quan đã được xem xét giải quyết kịp thời, tạo điều kiện cho địa phương thực hiện tốt công tác chuẩn bị bầu cử.

Công tác giám sát, kiểm tra về bầu cử ở các địa phương cũng được các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các ngành, các tổ chức phụ trách bầu cử chú trọng thực hiện thường xuyên, kịp thời nắm bắt tình hình, phát hiện những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở, xử lý và hướng dẫn nghiệp vụ về những vấn đề nảy sinh, bảo đảm việc triển khai chuẩn bị bầu cử đúng pháp luật và tiến độ chung trong cả nước.

6. Công tác thông tin, tuyên truyền

Theo chỉ đạo của Hội đồng bầu cử, Tiểu ban chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền đã có sự phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan hữu quan chỉ đạo và thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền về bầu cử trong phạm vi cả nước.

Tiểu ban đã thực hiện tốt nhiệm vụ định hướng thông tin, tuyên truyền cho các cơ quan thông tấn, báo chí; phối hợp với các cơ quan hữu quan triển khai các hội nghị tập huấn báo cáo viên; tổ chức các Đoàn kiểm tra tại một số tỉnh, thành phố. Hoạt động của Tiểu ban được thực hiện dưới nhiều hình thức như tổ chức hội nghị báo cáo viên, tuyên truyền viên; tổ chức triển lãm; thành lập trung tâm báo chí về bầu cử, xây dựng Website bầu cử; trả lời trực tuyến trên đài truyền hình; cung cấp thông tin về quá trình chuẩn bị bầu cử và các tài liệu có liên quan cho báo chí trong nước và quốc tế để thực hiện công tác thông tin đối ngoại về bầu cử; tổ chức các cuộc thi sáng tác bài hát, pa-nô, áp phích, tranh cổ động, tiến hành triển lãm và lựa chọn những tác phẩm tiêu biểu; tổ chức nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ gắn với bầu cử; biên soạn và phát hành các tài liệu tuyên truyền về Quốc hội, bầu cử ĐBQH và bầu cử đại biểu HĐND; kết hợp tuyên truyền bầu cử với việc cổ động những ngày lễ lớn của đất nước; thực hiện cầu truyền hình trực tiếp tại nhiều địa phương trong ngày bầu cử...

Tại các tỉnh, thành phố, công tác thông tin tuyên truyền được triển khai tích cực, chủ động với nhiều hoạt động đa dạng, phong phú và sáng tạo. Uỷ ban bầu cử đã phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Tư pháp trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền đến tận cấp cơ sở dưới nhiều hình thức phù hợp với đặc điểm của địa phương, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, làm cho nhân dân hiểu rõ mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND. Các cơ quan thông tin đại chúng ở địa phương đã mở các chuyên mục về bầu cử để đăng tải các thông tin về cuộc bầu cử.

Nhìn chung, công tác thông tin, tuyên truyền về bầu cử đã được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, chuẩn bị chu đáo, bài bản, đảm bảo đúng định hướng; đưa tin phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời về hoạt động bầu cử đến nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế; tạo nên không khí hào hứng, phấn khởi trong suốt quá trình chuẩn bị và trong ngày bầu cử; đấu tranh với những luận điệu sai trái, vu khống, xuyên tạc về cuộc bầu cử, đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc bầu cử.

7. Công tác bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử, Chính phủ và Uỷ ban trung ương MTTQ Việt Nam, các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương đã có kế hoạch chủ động triển khai công tác bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội cho cuộc bầu cử, ngăn chặn các âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

Tiểu ban chỉ đạo đảm bảo an ninh, trật tự và an toàn xã hội đã phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng để nắm tình hình trong cả nước, phối hợp với Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội thực hiện chương trình, kế hoạch hoạt động; có văn bản chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan, tổ chức hữu quan ở địa phương triển khai có hiệu quả công tác bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; thành lập các đoàn giám sát, kiểm tra việc triển khai thực hiện công tác bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong thời gian chuẩn bị bầu cử; duy trì chế độ giao ban theo định kỳ, tổng hợp và báo cáo theo ngày, tuần, tháng và báo cáo nhanh gửi Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử về những vụ việc phức tạp, điểm nóng về an ninh, trật tự, bảo đảm tuyệt đối an toàn trong thời gian chuẩn bị và tiến hành bầu cử.

Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và các cơ quan hữu quan đã thường xuyên theo dõi, nắm bắt diễn biến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong cả nước; có kế hoạch chỉ đạo các cấp, các ngành ở địa phương nêu cao tinh thần cảnh giác, có phương án chủ động đối phó với mọi hành vi phá hoại của các thế lực thù địch, các lực lượng chống đối chế độ, các nhóm cực đoan, cơ hội đối với cuộc bầu cử.

Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Uỷ ban MTTQ ở địa phương đã chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn công tác đảm bảo an ninh, trật tự. Hầu hết các tổ chức phụ trách bầu cử đều thành lập Tiểu ban hoặc nhóm phụ trách về vấn đề này. Các lực lượng nòng cốt gồm công an, quân đội, dân quân, tự vệ đã dựa vào quần chúng nhân dân trên địa bàn triển khai tốt các phương án, kế hoạch cụ thể để bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội trong cuộc bầu cử, nhất là đối với những địa bàn trọng yếu, vùng sát biên giới, những nơi cần có sự quan tẩm bảo đảm an ninh, trật tự.

Trước và trong ngày bầu cử, nhìn chung tình hình an ninh, trật tự ổn định, các khu vực bỏ phiếu, hòm phiếu, phiếu bầu và các phương tiện vật chất khác phục vụ cuộc bầu cử được bảo vệ an toàn, không có vấn đề bất thường xảy ra. Cuộc bỏ phiếu tại một số địa phương có những vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự, như Mường Nhé (Điện Biên), một số xã của huyện Lục Ngạn và huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang, diễn ra an toàn, trật tự, bảo đảm tiến độ chung của cả nước.

8. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử

Tiểu ban chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử đã phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban kiểm tra trung ương, Thanh tra Chính phủ và các cơ quan hữu quan thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong cuộc bầu cử. Tiểu ban đã chủ động, tích cực tổ chức tiếp công dân, tiếp nhận và nghiên cứu, xem xét, xác minh nội dung các đơn thư khiếu nại, tố cáo; thường xuyên theo dõi, đôn đốc các cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết.

Tính đến ngày 12.5.2011, Hội đồng bầu cử nhận được 595 đơn khiếu nại, tố cáo và đã phân loại, xử lý như sau:

- 212 đơn liên quan đến người ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND cấp tỉnh thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Trong đó, có 84 đơn liên quan đến 59 người có đủ điều kiện xử lý, 128 đơn không đủ điều kiện xử lý vì trùng lắp, nặc danh, nội dung không rõ ràng. Sau khi xem xét, xử lý, cơ quan có thẩm quyền đã kết luận 59 người ứng cử không có vi phạm, đủ điều kiện ứng cử ĐBQH và đại biểu HĐND cấp tỉnh;

- 44 đơn liên quan đến người ứng cử ĐBQH không thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, trong đó có 14 đơn có đủ điều kiện xử lý liên quan đến 14 người. Hội đồng bầu cử đã chuyển tới Uỷ ban bầu cử cấp tỉnh xem xét giải quyết. Đã có 7 văn bản trả lời, kết luận 7 người có liên quan đủ tư cách ứng cử, các trường hợp khác chưa có thông báo kết quả giải quyết. Có 30 đơn thư còn lại không đủ điều kiện xử lý.

- 323 đơn liên quan đến người ứng cử đại biểu HĐND các cấp, trong đó có 129 đơn trùng lắp, không đủ điều kiện xử lý. Có 194 đơn liên quan đến 377 người ứng cử đã được chuyển đến Uỷ ban bầu cử các cấp giải quyết. Hội đồng bầu cử đã nhận được 51 văn bản trả lời liên quan đến 65 người ứng cử, số còn lại chưa có thông báo kết quả.

- 16 đơn có liên quan đến tổ chức phụ trách bầu cử, lập danh sách cử tri. Các đơn này đã được chuyển đến các tổ chức phụ trách bầu cử và cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Hội đồng bầu cử đã nhận được 7 văn bản trả lời, kết luận các khiếu nại không có căn cứ.

Từ sau ngày 12.5.2011, Hội đồng bầu cử nhận được 122 đơn khiếu nại, tố cáo. Hội đồng bầu cử đang yêu cầu Tiểu ban chỉ đạo, giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử hoàn thiện hồ sơ để xử lý theo quy định của pháp luật. Đối với các đơn liên quan đến người trúng cử ĐBQH, Hội đồng bầu cử sẽ chuyển cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá XIII chỉ đạo giải quyết theo thẩm quyền.

Ở địa phương, các Uỷ ban bầu cử đều thành lập Tiểu ban chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc phân công thành viên chịu trách nhiệm theo dõi, chỉ đạo. Các tổ chức phụ trách bầu cử đã chủ động phân loại, xử lý và trực tiếp phối hợp với các cơ quan hữu quan ở địa phương xem xét giải quyết hoặc chuyển đến các cơ quan trung ương có thẩm quyền giải quyết. Uỷ ban nhân dân cấp xã cũng đã xem xét, giải quyết các khiếu nại liên quan đến việc lập và niêm yết danh sách cử tri, bảo đảm quyền bầu cử của công dân.

Nhìn chung, công tác chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử đạt được yêu cầu đề ra, bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, giải quyết kịp thời các đơn thư để có kết luận rõ ràng, không đưa những người không đủ tiêu chuẩn làm ứng cử viên ĐBQH, đại biểu HĐND các cấp, đồng thời đảm bảo được yêu cầu bảo vệ chính trị nội bộ trong cuộc bầu cử.

9. Công tác phục vụ Hội đồng bầu cử và Uỷ ban thường vụ Quốc hội

Hội đồng bầu cử đã thành lập Tổ giúp việc gồm các đồng chí đại diện lãnh đạo Văn phòng Quốc hội, Ban Công tác đại biểu của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, đại diện các ban, vụ hữu quan của Uỷ ban trung ương MTTQ Việt Nam, Văn phòng Quốc hội, Bộ Nội vụ. Tổ giúp việc đã thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu, giúp Hội đồng bầu cử, Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc dự kiến và điều chỉnh số lượng, cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội; công bố số đơn vị bầu cử và số đại biểu Quốc hội được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử; lập và công bố danh sách chính thức những người ứng cử, những người trúng cử đại biểu Quốc hội; phục vụ công tác giám sát, kiểm tra bầu cử; tham mưu, hướng dẫn các địa phương về công tác bầu cử; xây dựng dự thảo báo cáo thường xuyên về tiến độ triển khai công tác bầu cử; báo cáo kết quả hiệp thương; tổ chức tiếp nhận kết quả bầu cử và làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử; công bố kết quả bầu cử … Hoạt động tích cực và có trách nhiệm của Tổ giúp việc đã góp phần vào thành công chung của cuộc bầu cử.

 

III. KẾT QUẢ BẦU CỬ

 

Kết quả cụ thể của cuộc bầu cử ĐBQH khoá XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 như sau:

1. Tỷ lệ cử tri đi bầu và phiếu bầu

Tổng số cử tri:               62.313.605 người;

Tổng số cử tri đi bầu:                 62.010.266 người;

Tỷ lệ cử tri đi bầu:                      99,51%.

Các tỉnh có tỷ lệ cử tri đi bầu đạt cao là Lai Châu, Hà Giang, Hoà Bình, Lạng Sơn đạt 99,99%.

2. Kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội

2.1. Số lượng đại biểu Quốc hội

Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều bầu đủ số lượng đại biểu Quốc hội được phân bổ. Không có trường hợp bầu cử thiếu, bầu cử lại.

Tổng số người trong danh sách ứng cử để bầu đại biểu Quốc hội là 827 người.

Tổng số người trúng cử đại biểu Quốc hội là 500 người, trong đó:

- Đại biểu do trung ương giới thiệu: 167 người (33,40%);

- Đại biểu cư trú và làm việc tại địa phương: 333 người (66,60%);

- Số đại biểu tham gia Quốc hội lần đầu: 333 người (66,60%).

- Đại biểu có trình độ trên đại học: 229 người (45,80%); đại học: 262 người (52,40%); cao đẳng, trung cấp: 9 người (1,80%).

2.2. Cơ cấu kết hợp 

- Dân tộc thiểu số: 78 người (15,60%) ít hơn 12 người so với dự kiến, giảm 2,05% so với khoá XII;

- Phụ nữ: 122 người (24,40%) ít hơn 28 người so với dự kiến, giảm 1,36% so với khoá XII;

- Ngoài đảng:     42 người (8,40%) ít hơn so với dự kiến, giảm 0,32% so với khoá XII;

- Trẻ tuổi (dưới 40 tuổi): 62 người (12,40%) ít hơn 8 người so với dự kiến, giảm 1,39% so với khoá XII;

- Tái cử (khoá XII): 167 người (33,40%) tăng 7 người so với dự kiến, tăng 5,81% so với khoá XII;

- Tự ứng cử: 04 người (0,80%) tăng 3 người so với khóa XII.

3. Kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp

3.1. Số lượng đại biểu

Cả nước bầu được 302.648 đại biểu HĐND các cấp, trong đó:

- Cấp tỉnh:         3.822 người (thiếu 07 người);

- Cấp huyện:      21.079 người (thiếu 45 người);

- Cấp xã:           277.747 người (thiếu 3.791 người).

3.2. Cơ cấu kết hợp của đại biểu HĐND

- Cấp tỉnh: Dân tộc thiểu số: 688 người (18,00%); Phụ nữ: 962 người (25,17%); Ngoài đảng: 231 người (6,04%); Trẻ tuổi (dưới 35 tuổi): 406 người (10,62%); Tôn giáo: 142 người (3,72%); Tái cử: 941 người (24,62%); Tự ứng cử: 02 người (0,05%).

- Cấp huyện: Dân tộc thiểu số: 4.237 người (20,10%); Phụ nữ: 5188 người (24,62%); Trẻ tuổi (dưới 35 tuổi): 3.345 người (15,87%); Tôn giáo: 692 người (3,28%); Tái cử: 5.960 người (28,28%); không có đại biểu tự ứng cử.

- Cấp xã: Dân tộc thiểu số: 62.383 người (22,46%); Phụ nữ: 60.302 người (21,71%); Trẻ tuổi (dưới 35 tuổi): 64.279 người (23,14%); Tôn giáo: 10.555 người (3,80%); Tái cử: 114.110 người (41,08%); Tự ứng cử: 43 người (0,01%).

3.3. Bầu cử lại, bầu cử thêm

- Về bầu cử lại: Cấp tỉnh: không có; cấp huyện: 01 khu vực bỏ phiếu ở Hà Nội; cấp xã: 15 khu vực bỏ phiếu ở 06 tỉnh, thành phố (Hải Dương: 04, Thanh Hoá: 03, Nghệ An: 03, Hà Nội: 03, Bình Thuận: 01 và Gia La: 01).   

- Về bầu cử thêm: Cấp tỉnh: 02 đơn vị bầu cử ở 02 tỉnh (Sơn La và Quảng Ngãi); cấp huyện: 17 đơn vị bầu cử ở 08 tỉnh (Bình Thuận: 04 đơn vị; Đắk Lắk: 03; Quảng Ngãi: 03; Nghệ An: 02, Quảng Nam: 02; Bắc Kạn: 01; Thái Nguyên: 01 và Đắk Nông: 01); cấp xã: 574 đơn vị bầu cử ở 29 tỉnh.

 

IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC, HẠN CHẾ,

NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

 

1. Đánh giá chung về kết quả đạt được và nguyên nhân thành công

Cuộc bầu cử ĐBQH khoá XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 diễn ra thành công tốt đẹp. Thắng lợi toàn diện và to lớn của cuộc bầu cử thể hiện tinh thần yêu nước, sự tin tưởng của nhân dân vào đường lối đổi mới, vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, khẳng định quyền làm chủ của nhân dân và tinh thần đoàn kết dân tộc. Đây là tiền đề quan trọng triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng; tiếp tục xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Thắng lợi của cuộc bầu cử thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau:

- Cử tri đi bầu đạt tỷ lệ rất cao, khẳng định ý thức chính trị, trách nhiệm công dân và lòng yêu nước của nhân dân ta, thể hiện niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quản lý của nhà nước; sự tham gia tích cực của đông đảo quần chúng nhân dân là yếu tố quan trọng để cuộc bầu cử thực sự là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân;   

- Phát huy được tinh thần dân chủ trong từng bước triển khai công tác bầu cử, từ việc dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng; việc lấy ý kiến cử tri, hiệp thương lựa chọn, giới thiệu được những người ứng cử đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng; đến việc bỏ phiếu bầu được những người tiêu biểu, xứng đáng đại diện cho nhân dân trong cơ quan quyền lực nhà nước;

- Công tác chuẩn bị, triển khai cuộc bầu cử đúng pháp luật, bảo đảm tiến độ đề ra; cuộc bầu cử diễn ra trong tình hình an ninh ổn định, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, không có các tình huống bất thường xảy ra;

- Cử tri cả nước đã đi bỏ phiếu bầu đủ 500 ĐBQH theo quy định của pháp luật, không có trường hợp phải bầu lại, bầu thêm ĐBQH. Số lượng đại biểu HĐND các cấp bầu được gần đủ so với số lượng đại biểu đã được phê chuẩn;

- Trình độ học vấn của ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp được nâng lên so với các nhiệm kỳ trước đây là điều kiện để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan dân cử. Thành phần, cơ cấu đại biểu cơ bản phù hợp với dự kiến, phản ánh được tính đại diện rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân; tỷ lệ đại biểu tự ứng cử, tái cử ĐBQH cao hơn nhiệm kỳ trước;

- Thực hiện thành công chủ trương của Ban Chấp hành trung ương Đảng về việc tổ chức đồng thời cuộc bầu cử ĐBQH và bầu cử đại biểu HĐND các cấp trong cùng một ngày, ngay sau Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong công tác tổ chức cán bộ, tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức của nhân dân, gắn công tác bầu cử với việc thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội. Qua đó khẳng định được tính đúng đắn và phù hợp của chủ trương này với điều kiện hiện nay của đất nước ta.

Thắng lợi của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau:

- Thứ nhất, có sự lãnh đạo chặt chẽ, toàn diện và kịp thời của Ban chấp hành trung ương, Bộ Chính trị và các cấp uỷ Đảng trong từng bước triển khai, chuẩn bị bầu cử. Bộ Chính trị đã sớm lãnh đạo, chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội chủ động nghiên cứu trình Bộ Chính trị xem xét "Đề án tổng thể và chủ trương cụ thể về các vấn đề có liên quan đến cuộc bầu cử ĐBQH và bầu cử đại biểu HĐND các cấp"; ban hành chỉ thị lãnh đạo, quán triệt mục đích, yêu cầu, ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc bầu cử. Ban Tổ chức trung ương đã ban hành văn bản hướng dẫn, nêu rõ những định hướng về công tác nhân sự; cho ý kiến về số lượng, cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội. Các cấp uỷ Đảng đã kịp thời phổ biến, triển khai chỉ thị của Bộ Chính trị; khẩn trương, trách nhiệm và nghiêm túc trong tổ chức lãnh đạo cuộc bầu cử ở địa phương theo đúng các quy định của pháp luật.

- Thứ hai, có sự tham gia tích cực của nhân dân vào công tác bầu cử, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cử tri cả nước đã ý thức sâu sắc về quyền và nghĩa vụ của mình đối với cuộc bầu cử và tích cực tham gia vào cuộc bầu cử, đóng góp nhiều ý kiến nhận xét, đánh giá mang tính xây dựng cao về người ứng cử, về Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là cơ sở để tiếp tục kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan dân cử trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đông đảo các tầng lớp nhân dân đã tham gia tích cực vào các bước triển khai tổ chức bầu cử, là chỗ dựa vững chắc của các lực lượng vũ trang bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội cho cuộc bầu cử.

- Thứ ba, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử, Chính phủ và các bộ ngành có liên quan đã thực hiện tốt công tác hướng dẫn và chỉ đạo chung về bầu cử. Dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Đảng đoàn và Ban cán sự Đảng, các cơ quan trung ương đã ban hành các văn bản triển khai tổ chức bầu cử; kịp thời nắm bắt tình hình chung, phối hợp chặt chẽ trong việc hướng dẫn, chỉ đạo chung về công tác chuẩn bị bầu cử, thường xuyên kiểm tra, giám sát, giải quyết những vướng mắc, khó khăn ở địa phương, bảo đảm sự thống nhất, đúng pháp luật và tiến độ đề ra trong việc tổ chức bầu cử.  

- Thứ tư, Uỷ ban MTTQ các cấp và các tổ chức thành viên đã phát huy tốt vai trò của mình trong cuộc bầu cử. Uỷ ban MTTQ các cấp đã tổ chức tốt các bước hiệp thương, lấy ý kiến cử tri nơi cư trú, nơi công tác bảo đảm đúng luật, phát huy dân chủ trong việc lựa chọn những người đủ tiêu chuẩn xứng đáng ứng cử ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp. Các tổ chức thành viên đã cùng với Uỷ ban MTTQ tham gia công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, thực hiện giám sát về bầu cử, vận động nhân dân tích cực tham gia công tác chuẩn bị bầu cử và đi bỏ phiếu thực hiện quyền công dân.

- Thứ năm, có sự chỉ đạo chặt chẽ và triển khai tích cực, chủ động, trách nhiệm cao của các cấp chính quyền. Ngay sau hội nghị toàn quốc triển khai công tác bầu cử, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp đã kịp thời tổ chức công tác tập huấn sâu rộng, quán triệt đầy đủ các yêu cầu, nội dung, nghiệp vụ về bầu cử; thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử; khẩn trương triển khai các công tác chuẩn bị bầu cử theo đúng tiến độ; chuẩn bị các điều kiện vật chất và con người phục vụ bầu cử; chỉ đạo các ngành, các cấp phối hợp tham gia vào quá trình chuẩn bị bầu cử đạt hiệu quả cao; thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền; giải quyết khiếu nại, tố cáo; bảo đảm an ninh, trật tự và an toàn xã hội trong bầu cử. Hệ thống chính trị ở cấp cơ sở đã phát huy tinh thần trách nhiệm, khắc phục nhiều khó khăn, vướng mắc, quyết tâm triển khai công tác bầu cử đúng thời hạn, đạt kết quả cao.  

2. Những hạn chế

Bên cạnh những kết quả đã đạt được là chủ yếu, cuộc bầu cử ĐBQH khoá XIII và đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2011-2016 còn có những hạn chế nhất định:

1. Các quy định pháp luật về bầu cử còn có những bất cập, chưa quy định cụ thể về phân định thẩm quyền các tổ chức bầu cử. Một số văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của các cơ quan trung ương chậm được ban hành. Một số mẫu tranh, khẩu hiệu phục vụ công tác thông tin, tuyên truyền ở một số địa phương, biểu mẫu thống kê, biên bản xác định kết quả bầu cử trong văn bản hướng dẫn của Hội đồng bầu cử chưa thống nhất giữa bầu cử ĐBQH và bầu cử đại biểu HĐND nên phải hướng dẫn bổ sung, ít nhiều ảnh hưởng đến tiến độ chuẩn bị bầu cử.

2. Trong quá trình chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội còn có những trường hợp chậm được phát hiện, hoặc có nơi chưa phối hợp xử lý dứt điểm nên xảy ra phức tạp về trật tự xã hội. Cá biệt, có địa phương đã không dự liệu trước được tính phức tạp trong những vụ việc khiếu nại, tố cáo, nên có khu vực bầu cử tỷ lệ cử tri đi bầu thấp, chưa đạt 50% tổng số cử tri.  

3. Có nơi chưa chú trọng đúng mức công tác tập huấn bầu cử, nhất là đối với cán bộ, nhân viên Tổ bầu cử; việc kiểm tra, chỉ đạo ở cơ sở thiếu chặt chẽ nên để xảy ra sai sót khi in ấn phiếu bầu, đóng dấu tổ bầu cử, kiểm soát số lượng phiếu phát ra nên một số tổ bầu cử vi phạm luật bầu cử dẫn đến phải huỷ bỏ cuộc bầu cử, tổ chức bầu cử lại. Tuy số lượng các trường hợp phải bầu cử lại, bầu cử thêm không nhiều nhưng cần phải rút kinh nghiệm nghiêm túc trong chỉ đạo thực hiện. Thực tế vẫn còn tình trạng có gia đình cử người bầu hộ, bầu thay. Một số địa phương thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường có sự lúng túng trong thời gian đầu chuẩn bị bầu cử.

4. Ở một số nơi, việc tổ chức hội nghị lấy ý kiến cử tri nơi cư trú, gặp gỡ cử tri vận động bầu cử thực hiện chưa thống nhất; việc tổ chức tiếp xúc cử tri để vận động bầu cử có nơi còn ít, chưa được chú trọng; trong vận động bầu cử xuất hiện những trường hợp vận động thiếu bình đẳng. Do hạn chế về thời gian, lại tổ chức đồng thời cả bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND, khối lượng công việc rất lớn nên ở cơ sở gặp nhiều khó khăn, chất lượng và số lượng không đồng đều.  

5. Công tác hiệp thương ở một số nơi chưa đúng dự kiến cơ cấu, thành phần ĐBQH, công tác nhân sự chưa chuẩn bị kỹ, nhất là ở cấp xã. Một số chỉ tiêu định hướng về cơ cấu trẻ tuổi, ngoài đảng, đặc biệt là cơ cấu về nữ, ở một số địa phương đã không đạt ngay trong quá trình hiệp thương. Đây là vấn đề cần phải quan tâm xem xét trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo bầu cử và công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ nữ. Ngoài ra, vẫn còn những trường hợp phân bổ ứng cử viên trong một đơn vị bầu cử có sự chênh lệch về năng lực, trình độ.

Những hạn chế nêu trên là do vẫn còn tình trạng chủ quan, kinh nghiệm chủ nghĩa trong lãnh đạo, chỉ đạo; công tác tập huấn, kiểm tra bầu cử ở một vài nơi chưa cụ thể, kịp thời, sát sao và thường xuyên. Cuộc bầu cử có nhiều điểm mới, khối lượng công việc rất lớn, lại phải triển khai trong thời gian ngắn nên chất lượng, hiệu quả chưa đạt như mong muốn. Kinh phí bầu cử còn hạn chế so với yêu cầu công việc…

3. Bài học kinh nghiệm

Qua công tác chuẩn bị và tổ chức cuộc bầu cử ĐBQH khoá XIII và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:

1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Ban chấp hành trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ Đảng đối với công tác chuẩn bị bầu cử là yếu tố quan trọng quyết định đến thắng lợi của cuộc bầu cử. Công tác phổ biến, quán triệt về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng và các yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc bầu cử phải có sự chuẩn bị chu đáo, tiến hành kịp thời, trách nhiệm ở các cấp, các ngành. Thực hiện đồng thời công tác lãnh đạo, chỉ đạo với việc kiểm tra, đánh giá quá trình triển khai thực hiện trên thực tế.

2. Phân công rõ ràng, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan trong công tác chỉ đạo bầu cử, tạo ra sự thống nhất, thông suốt từ trung ương đến cơ sở trong quá trình triển khai chuẩn bị bầu cử. Thường xuyên tiến hành giám sát, kiểm tra; giải quyết kịp thời những vướng mắc ở địa phương, cơ sở.

3. Chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền về bầu cử cả về chiều rộng và chiều sâu, có trọng tâm, trọng điểm về nội dung và phong phú về hình thức trong từng thời điểm cụ thể. Coi trọng công tác tuyên truyền miệng, mạn đàm sâu trong cử tri thông qua vai trò nòng cốt của các tổ chức quần chúng. Hướng dẫn công tác thông tin, tuyên truyền trong việc vận động bầu cử, bảo đảm sự khách quan, công bằng, bình đẳng giữa các ứng cử viên.

4. Đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc các cấp và các tổ chức thành viên trong thực hiện các bước công tác và các vòng hiệp thương xác định ứng cử viên, tổ chức tiếp xúc cử tri vận động bầu cử và  động viên nhân dân hăng hái tham gia tích cực vào công tác bầu cử.

5. Bám sát địa bàn cơ sở, có phương án, kế hoạch bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội tuyệt đối cho cuộc bầu cử; nắm chắc tình hình khiếu nại, tố cáo, nhất là khiếu nại tố cáo đông người, vượt cấp; chủ động giải quyết đơn thư và dự liệu trước những vấn đề phát sinh trong khiếu nại, tố cáo để kịp thời xử lý.

6. Thực hiện tốt công tác tập huấn nghiệp vụ về bầu cử, lưu ý đến việc lựa chọn người tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử, đặc biệt là đối với những người tham gia làm Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký tổ bầu cử phải thực sự có uy tín,  có kinh nghiệm và trình độ hiểu biết về pháp luật bầu cử; tất cả các thành viên trong tổ bầu cử phải được tập huấn thành thạo công việc trước ngày bầu cử; thực hiện triệt để nguyên tắc trực tiếp và bỏ phiếu kín, kiên quyết loại bỏ bệnh thành tích trong bầu cử.

7. Thực hiện chặt chẽ chế độ báo cáo về tiến độ triển khai công tác bầu cử để các cơ quan hữu quan nắm bắt và có ý kiến chỉ đạo, giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh, nhất là trong ngày bầu cử.

 

V. NHỮNG KIẾN NGHỊ

 

Từ tổng kết cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIII và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016, Hội đồng bầu cử kiến nghị một số vấn đề sau đây:

A. Những kiến nghị trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai bầu cử

1. Về công tác dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu; chuẩn bị nhân sự đại biểu Quốc hội

Cuộc bầu cử lần này được tiến hành ngay sau Đại hội đảng các cấp nên công tác nhân sự ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp đã được chuẩn bị một bước. Trước khi triển khai, Đảng đoàn Quốc hội đã xây dựng đề án bầu cử trình Bộ Chính trị, tạo điều kiện thuận lợi, chủ động trong công tác định hướng xây dựng dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu; dự kiến nguồn nhân sự. Kinh nghiệm này cho thấy cần triển khai sớm hơn công tác nhân sự ĐBQH và đại biểu HĐND, tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức hữu quan chủ động, chuẩn bị chu đáo nhân sự giới thiệu ứng cử đại biểu, nhất là nguồn nhân sự đại biểu trẻ tuổi, nữ, đại biểu dân tộc thiểu số.

Xây dựng các tiêu chí để dự kiến và có cơ chế để các địa phương tham gia ý kiến bảo đảm việc dự kiến cơ cấu, thành phần ĐBQH phù hợp hơn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội cụ thể ở từng địa phương. Không để các ứng cử viên nữ kiêm nhiều cơ cấu. Kết hợp nghiên cứu nâng độ tuổi tái cử đối với ĐBQH đang làm công tác chuyên trách.

2. Việc ban hành văn bản hướng dẫn bầu cử

Hệ thống các văn bản về bầu cử cần được chuẩn bị kỹ càng và ban hành sớm để địa phương nghiên cứu, quán triệt, phổ biến trước khi triển khai trong thực tế. Việc ban hành văn bản hướng dẫn cần phải đảm bảo tính đồng bộ, cụ thể, thống nhất cao về nội dung, cách sử dụng từ ngữ, hạn chế đến mức tối đa việc giải thích, hướng dẫn thêm bằng các văn bản cá biệt. Thống nhất các tài liệu do trung ương cấp và các tài liệu do địa phương chuẩn bị để tránh tình trạng chồng chéo trong in ấn, cấp phát tài liệu, gây lãng phí.

3. Về thành phần Hội đồng bầu cử và mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan trung ương trong quá trình chuẩn bị bầu cử 

Thực tiễn bầu cử trong những nhiệm kỳ vừa qua, Hội đồng bầu cử do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập bao gồm thành viên của nhiều cơ quan, tổ chức hữu quan ở trung ương, nhưng không có đại diện Hội đồng dân tộc của Quốc hội. Việc Chủ tịch Hội đồng dân tộc tham gia Hội đồng bầu cử là cần thiết trong điều kiện hiện nay nhằm đảm bảo tính đại diện và tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc trong công tác bầu cử, tạo thuận lợi cho việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề phát sinh có liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số.

Tăng cường mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan ở trung ương trong công tác chuẩn bị bầu cử; căn cứ vào quy định của pháp luật, cần phân định rõ, cụ thể hơn về quyền hạn, nhiệm vụ của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử, Chính phủ, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Nội vụ, Ban Công tác đại biểu… trong từng khâu, từng bước công việc triển khai bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp.

5. Phân bổ ứng cử viên ở các đơn vị bầu cử ĐBQH

Theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội thì Uỷ ban bầu cử các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập danh sách những người ứng cử ĐBQH theo đơn vị bầu cử và báo cáo Hội đồng bầu cử; Hội đồng bầu cử lập và công bố danh sách những người ứng cử ĐBQH theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước. Áp dụng quy định này trong thực tiễn, Hội đồng bầu cử mới chỉ tập hợp và công bố danh sách, chưa có điều kiện xem xét tính hợp lý trong việc phân bổ các ứng cử viên theo đơn vị bầu cử trên toàn quốc.

Để bảo đảm tính hợp lý, sự công bằng, bình đẳng giữa các ứng cử viên, tránh trường hợp bố trí quá chênh lệch về trình độ, năng lực, vị trí công tác của các ứng cử viên, cần quy định rõ thẩm quyền cho Hội đồng bầu cử trong việc xem xét phân bổ ứng cử viên trên cơ sở đề nghị của Uỷ ban bầu cử các tỉnh, thành phố trước khi công bố.

6. Kinh phí bầu cử

Kinh phí tổ chức cuộc bầu cử lần này được bố trí nhiều hơn so với trước đây, nhưng do lần đầu tổ chức bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp trong cùng một ngày nên từ dự toán đến mức chi thực tế vẫn chưa đáp ứng được một cách đầy đủ yêu cầu công việc. Các địa phương đều phải trích thêm từ ngân sách cấp mình để bổ sung kinh phí thực hiện công tác chuẩn bị bầu cử. Nhiều địa phương cho rằng cần phải thống nhất nguồn kinh phí, hoặc là do trung ương bảo đảm toàn bộ, hoặc là do địa phương cấp một phần nhưng phải quy định rõ tỷ lệ. Hơn nữa, phải xác định cụ thể các tiêu chí phân bổ kinh phí, bảo đảm sự công bằng và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện tự nhiên và đặc thù của từng địa phương. Kinh phí cần phân bổ sớm hơn để tạo sự chủ động cho các cơ quan, tổ chức thực hiện các bước chuẩn bị bầu cử.

Ngoài ra, các địa phương cũng đề nghị hướng dẫn, chỉ đạo thống nhất một số vấn đề như: số lượng hòm phiếu; Ban bầu cử kiêm tổ bầu cử; cách tổng hợp cử tri vãng lai; xây dựng phần mềm, áp dụng công nghệ thông tin trong bầu cử; có cơ chế để giám sát việc thực hiện các chương trình hành động của những người trúng cử…

B. Những kiến nghị sửa đổi, bổ sung các luật bầu cử

Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Phạm vi sửa đổi, bổ sung mới chỉ tập trung vào những nội dung thực sự cấp bách về quy trình, thủ tục nhằm tạo điều kiện thuận lợi tổ chức thành công cuộc bầu cử ĐBQH và bầu cử đại biểu HĐND các cấp trong cùng một ngày.

Qua quá trình triển khai công tác chuẩn bị cho cuộc bầu cử này và nghiên cứu thực tiễn các cuộc bầu cử gần đây, để chuẩn bị cho việc sửa đổi một cách căn bản, toàn diện các luật về bầu cử trong thời gian tới, Hội đồng bầu cử kiến nghị một số vấn đề sau đây:

1. Về việc hợp nhất các luật bầu cử

Nhiều địa phương cho rằng việc tổ chức đồng thời bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND nhân dân trong cùng một ngày là phù hợp, đáp ứng các yêu cầu đề ra, đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn cuộc bầu cử lần này. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung các luật về bầu cử cần được tiến hành theo hướng hợp nhất hai luật bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND. Trên cơ sở đó quy định thống nhất về trình tự, thủ tục, thời gian và cách thức tiến hành công việc chuẩn bị bầu cử. Hơn nữa, việc sửa đổi các luật cần triển khai sớm để có thời gian chuẩn bị chu đáo cho cuộc bầu cử. 

2. Thời hạn công bố ngày bầu cử

Theo quy định hiện hành, Uỷ ban thường vụ Quốc hội công bố ngày bầu cử chậm nhất là 105 ngày trước ngày bầu cử. Thực tiễn những cuộc bầu cử vừa qua cho thấy, thời gian để thực hiện một số bước chuẩn bị bầu cử rất ngắn nên việc triển khai rất cập rập, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả, nhất là công tác hiệp thương, lấy ý kiến cử tri nơi công tác, nơi cư trú về người ứng cử, giải quyết khiếu nại, tố cáo, in ấn và niêm yết danh sách người ứng cử. Vì vậy, cần nghiên cứu quy định về thời hạn công bố ngày bầu cử và phân bổ lại thời gian cho từng bước công việc một cách hợp lý hơn.

3. Số người ứng cử và số đại biểu được bầu ở các đơn vị bầu cử, cách xử lý trong trường hợp khuyết người ứng cử

Theo quy định hiện nay, đơn vị bầu cử ĐBQH không được bầu quá 3 đại biểu, đơn vị bầu cử đại biểu HĐND không được quá 5 đại biểu. Áp dụng quy định này, các tỉnh, thành phố phân chia mỗi đơn vị bầu cử ĐBQH được bầu 2 hoặc 3 đại biểu, việc phân bổ số lượng đại biểu HĐND được bầu không thống nhất. Trong khi đó, quy định về số dư người ứng cử cũng không giống nhau nên dẫn đến tình trạng thiếu sự bình đẳng về khả năng trúng cử giữa các ứng cử viên ĐBQH ở đơn vị được bầu 2 đại biểu và ứng cử viên ĐBQH ở đơn vị được bầu 3 đại biểu, giữa ứng cử viên đại biểu HĐND ở các đơn vị bầu cử có số lượng đại biểu được bầu khác nhau.

Để khắc phục tình trạng này, đề nghị có những quy định cụ thể hơn về số ĐBQH được bầu ở mỗi đơn vị, số đại biểu HĐND được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử trong cùng một cấp, trừ trường hợp đặc biệt. Hơn nữa, nên giảm bớt số đại biểu được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử để tăng cường mối liên hệ giữa đại biểu với cử tri nơi mình ứng cử. Bên cạnh đó, cần thống nhất về hướng xử lý khi khuyết người ứng cử vì lý do bất khả kháng giữa bầu cử ĐBQH và bầu cử đại biểu HĐND.

4. Tiêu chuẩn đại biểu, điều kiện tự ứng cử

Hiện nay, các quy định về tiêu chuẩn đại biểu trong các luật bầu cử còn chung chung, nhất là các quy định về trình độ, năng lực, phẩm chất, đạo đức… nên trong quá trình hiệp thương gặp khó khăn, thậm chí có nơi phát sinh khiếu nại, tố cáo về tư cách người ứng cử không thể giải quyết được. Điều kiện ứng cử của người Việt Nam ở nước ngoài chưa được đề cập tới. Hơn nữa, pháp luật chưa quy định các tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể đối với trường hợp tự ứng cử. Do vậy, chất lượng người tự ứng cử nhìn chung chưa cao, tỷ lệ trúng cử thấp so với số lượng ứng cử viên. Các thế lực thù địch, các đối tượng cơ hội chính trị lợi dụng vấn đề này để xuyên tạc.

Để khắc phục hạn chế này, bên cạnh việc phát hiện, khuyến khích những người đủ tài, đủ đức tự ứng cử, cần phải quy định điều kiện đầy đủ, chặt chẽ đối với người tự ứng cử. Đồng thời, quy định rõ hơn các tiêu chuẩn ĐBQH, đại biểu HĐND trong các luật bầu cử.   

5. Về công tác hiệp thương

Quy định kéo dài thời gian chuẩn bị công tác hiệp thương tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức các bước hiệp thương chu đáo. Trong đó, cần bổ sung thời gian cho giai đoạn thực hiện bước 4 lấy ý kiến tín nhiệm của cử tri nơi cư trú, đây là bước có khối lượng công việc rất lớn. Thống nhất hình thức biểu quyết tại các Hội nghị bằng hình thức bỏ phiếu kín thay vì để Hội nghị quyết định hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín nhằm phát huy tính dân chủ, tạo điều kiện cho các đại biểu tham dự có khả năng thể hiện đúng chính kiến của mình.

Bên cạnh đó, sửa đổi quy định Uỷ ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ hai bằng việc quyết định cơ cấu, số lượng, thành phần đại biểu sau Hội nghị hiệp thương lần thứ hai để phù hợp với bản chất công việc, vì sau Hội nghị hiệp thương này đã hết thời hạn nộp hồ sơ ứng cử, không thể tiến hành thay đổi cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu,  đồng thời nâng cao giá trị pháp lý, ý nghĩa chính trị của kết quả Hội nghị hiệp thương.

6. Giới thiệu ứng cử viên ở trung ương về địa phương ứng cử

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn các cuộc bầu cử vừa qua, cần nghiên cứu về các tiêu chí phân bổ ứng cử viên ở trung ương về địa phương ứng cử và quy định trong Luật bầu cử. Có nguyên tắc để phân bổ các ứng cử viên là cán bộ cấp cao và tiêu chí để phân bổ các ứng cử viên tái cử, ứng cử viên thuộc lực lượng vũ trang…

7. Về Bầu cử thêm

Điều 71 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định trong cuộc bầu cử thêm, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người ứng cử lần đầu nhưng không trúng cử. Như vậy, tỷ lệ trúng cử trong cuộc bầu cử thêm là rất thấp do khó đạt trên 50% số phiếu. Thực tế cuộc bầu cử này cho thấy có địa phương chỉ bầu thêm được khoảng 37% số lượng đại biểu HĐND cấp xã bị thiếu. Đây là vấn đề cần nghiên cứu khi sửa đổi các luật về bầu cử theo hướng hoặc là chỉ để 2 người cao phiếu hơn, bầu lấy 1 người; hoặc là để tất cả để bầu nhưng ai cao phiếu nhất thì trúng cử.

8. Về tổ chức vận động bầu cử

Việc vận động bầu cử hiện nay chưa được quy định cụ thể trong các luật bầu cử mà chỉ mới quy định trong Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Nội dung các quy định còn chung chung, nhất là về cách thức, trách nhiệm, số lượng các cuộc tiếp xúc; chưa có cơ chế phát hiện những trường hợp vận động bầu cử vi phạm pháp luật; chưa có tiêu chí đánh giá sự công bằng giữa các ứng cử viên và các chế tài xử lý vi phạm. Do vậy, cần nghiên cứu sửa đổi các quy định hiện hành theo hướng cụ thể hơn và luật hoá thành các quy định trong các Luật bầu cử.

9. Về thời gian kết thúc cuộc bỏ phiếu

Nhiều địa phương cho rằng quy định cuộc bỏ phiếu kết thúc vào lúc 19 giờ là chưa hợp lý vì thực tế đa số các khu vực bỏ phiếu (nhất là ở các đơn vị lực lượng vũ trang) có 100% cử tri trong danh sách đi bầu từ rất sớm. Việc kéo dài cuộc bầu cử trong trường hợp này là không cần thiết, tốn kém công sức và chi phí cho công tác bảo vệ an ninh, trật tự ở khu vực bỏ phiếu, ảnh hưởng đến tiến độ kiểm phiếu. Do vậy, nên quy định trường hợp các khu vực bỏ phiếu có 100% cử tri trong danh sách đã thực hiện quyền bầu cử thì được kết thúc cuộc bỏ phiếu. Nghiên cứu quy định sử dụng hòm phiếu phụ để cho cử tri vãng lai thực hiện quyền bầu cử.

*

*           *

Cuộc bầu cử ĐBQH khoá XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 đã thành công tốt đẹp. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử, Chính phủ, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh tinh thần trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân và cử tri cả nước; đánh giá cao sự cố gắng của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, các tổ chức phụ trách bầu cử và các cơ quan hữu quan ở trung ương và địa phương đã thực hiện tốt công tác bầu cử; hệ thống chính trị ở cơ sở đã khắc phục, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, quyết tâm triển khai công tác bầu cử đúng pháp luật, đạt kết quả cao, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc bầu cử.

 

 

 

Nơi nhận:

- Các vị ĐBQH;

- Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

- Hội đồng bầu cử;

- Chính phủ;

- UBTW MTTQVN;

- VPTW, VP Chính phủ;

- Bộ Nội vụ, Bộ CA, Bộ QP, Bộ Tư pháp, Bộ VH-TT-DL; Bộ TTTT; Bộ Tài chính.

- TU, HĐND, UBND, UBMTTQ các tỉnh, thành phố;

- Lưu VP HĐBC.

TM. HỘI ĐỒNG BẦU CỬ

KT. CHỦ TỊCH

PHÓ CHỦ TỊCH

(đã ký)

Tòng Thị Phóng

 

 

In trang
Các bài viết khác